Tuesday, January 30, 2018

Đề thi thử THPT Quốc Gia

Câu 1 (8,0 điểm)
Trong cuốn sách Khẳng định bản thân, tác giả Lưu Dung (Trung Quốc) đã căn dặn con mình:
Nên nhớ, loài vi trùng tự thỏa hiệp có thể ăn sâu vào cốt tủy, khiến cả đời con không đứng thẳng lên được.        
              (Khẳng định bản thân - Lưu Dung, NXB Văn hóa dân tộc. 2008)
                   Lời căn dặn trên gợi cho anh (chị) những suy nghĩ gì?

Câu 2 (12,0 điểm)
Có ý kiến cho rằng:
Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ.
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy liên hệ với một bài ca dao và một bài thơ trung đại (đã được học hoặc đọc thêm trong chương trình Ngữ văn 10 Nâng cao) để làm sáng tỏ vấn đề.
Hướng dẫn:

Câu 1 (8,0 điểm) 

I. Yêu cầu về kĩ năng         

Biết cách làm bài nghị luận xã hội, bố cục mạch lạc, rõ ràng, lập luận chặt chẽ. Dẫn chứng cụ thể, sinh động, văn giàu cảm xúc, không mắc lỗi về chính tả, dùng từ, diễn đạt.

      II. Yêu cầu về kiến thức
      - Hiểu và đánh giá, bàn luận  thuyết phục vấn đề mà đề bài nêu ra
      - Học sinh có thể có những kiến giải, đánh giá theo quan điểm riêng của mình song cần lôgic, hợp lí và đảm bảo những ý sau:
1. Giải thích (2,0 điểm)
          - Tự thỏa hiệp: Thái độ và hành động chấp nhận hoàn cảnh, thực tế trước mắt; bỏ qua mục đích, dự định mình đã vạch ra trước đó.
          - Cách nói hình ảnh loài vi trùng tự thỏa hiệp có thể ăn sâu vào cốt tủy, khiến cả đời con không đứng thẳng lên được gợi tả sự nguy hại của việc con người tự thỏa hiệp với mình trong cuộc sống. Giống như loài vi trùng gây bệnh, tâm lí tự thỏa hiệp có thể ăn sâu và hủy hoại cuộc đời của mỗi con người, khiến người ta không thể sống một cuộc đời như mong đợi.
-> Lời căn dặn của người cha với con cũng là một bài học đạo đức sâu sắc, có tác dụng cảnh tỉnh con người trước nguy cơ tự thỏa hiệp để biện hộ cho sự hèn nhát, thiếu bản lĩnh, ý chí mình khi không thực hiện được một việc nào đó.
2. Bình luận (5,0 điểm)
          a. Tự thỏa hiệp là loài vi trùng nguy hiểm có thể ăn sâu vào cốt tủy và khiến con
người ta không đứng thẳng lên được là vì:
- Trong mỗi con người đều có hai phần Con và Người, bản năng và lí trí…Không ít trường hợp tiếng nói của bản năng với nhu cầu hưởng thụ, tâm lí ngại khó ngại khổ, tự thoả mãn đã lấn át lí trí, khiến con người gục ngã trên hành trình thực hiện lí tưởng. Tâm lí tự thỏa hiệp xuất hiện có thể vỗ về người ta quên đi thực tại, biện hộ cho thất bại của bản thân mình.
+ Tự thỏa hiệpvi trùng nguy hiểm vì những biểu hiện của nó hầu như không gây nguy hại gì ngay tức khắc nhưng lại dần ăn sâu, hủy hoại con người, dần tạo thành những thói quen khó bỏ, những tính xấu khó chữa, biến con người thành nhu nhược, lười biếng, sống không lí tưởng.
b. Mở rộng, nâng cao vấn đề
- Cần phân biệt tự thỏa hiệp với sự tỉnh táo chấp nhận thực tế để sửa đổi, tránh bảo thủ máy móc.
- Cần phê phán những người, những biểu hiện hèn nhát, tự ru mình, thỏa hiệp với hoàn cảnh trước mắt.
3. Bài học và liên hệ bản thân (1,0 điểm)
 Mỗi người cần nâng cao ý thức, đề cao tính kỉ luật tự giác, không cho phép mình thối chí, tự thoả hiệp bằng lòng với bản thân.
Câu 2 (12,0 điểm)
I. Yêu cầu về kỹ năng
Biết cách làm bài nghị luận văn học: kết cấu sáng rõ, lập luận chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, văn viết giàu cảm xúc.
II. Yêu cầu về kiến thức
Thí sinh có thể làm bài theo nhiều cách khác nhau, song về cơ bản cần đảm bảo những nội dung cơ bản sau:

1. Giải thích (2,0 điểm)
- Thơ ca: trước hết là một loại hình văn học, sau nữa có thể hiểu là chỉ văn học nghệ thuật nói chung.
- Thơ ca bắt rễ từ lòng người: Thơ ca là tiếng nói chân thực của tình cảm. Nó được khơi nguồn, bắt rễ từ tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Vế thứ nhất của nhận định đề cập đến khởi nguồn của thơ, vai trò của yếu tố tình cảm, xúc cảm trong sáng tác thơ, đến nội dung của tác phẩm văn học.
- Nở hoa nơi từ ngữ: Từ ngữ hiểu rộng là ngôn từ nghệ thuật, là giá trị nghệ thuật, là vẻ đẹp ngôn ngữ của tác phẩm văn học.
Như vậy, nhận định của đề bài bàn về mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của tac phẩm nghệ thuật; về đặc trưng của văn học, đặc trưng của thơ; đề cao vai trò của yếu tố tình cảm, cảm xúc trong thơ, đồng thời yêu cầu tình cảm ấy phải được diễn tả bằng ngôn từ đẹp đẽ, giàu tính thẩm mĩ. Đây là một qui luật, cũng là một yêu cầu trong sáng tạo nghệ thuật.
2. Bình luận (4,0 điểm)
a. Vì sao lại nói: Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ?
- Thơ ca bắt rễ từ lòng người bởi lẽ:
+ Xuất phát từ đặc trưng của văn học: Nghệ thuật là lĩnh vực sáng tạo để phản ánh hiện thực, trong đó phản ánh tâm tư, tình cảm của chủ thể sáng tạo. Xuất phát từ đặc trưng về đối tượng, nội dung của văn học, có thể thấy: văn học không phản ánh hiện thực một cách bàng quan, lạnh lung mà bao giờ cũng gắn chặt với tình cảm, ước mơ, khát vọng…của nhà văn. Điều đó tạo nên qui luật tình cảm trong phản ánh nghệ thuật.
+ Xuất phát từ đặc trưng của thơ, đặc biệt là thơ trữ tình: tiếng nói trữ tình bao giờ cũng được bộc lộ trực tiếp, trở thành bình diện thứ nhất của sáng tác.
- Tiếng nói của tình cảm, tâm tư con người được gửi gắm trong tác phẩm nghệ thuật như thế nào?
+ Nhu cầu được giãi bày những gì chất chứa trong lòng (niềm vui, nỗi buồn…)
+ Là lời nhắn gửi, sự cảm thông; là tiếng lòng đến với tiếng lòng (tiếng nói tri âm)
+ Nghệ thuật chân chính còn chứa đựng trong nó chiều sâu của tư tưởng tiến bộ, các giá trị đối với cuộc sống, làm đẹp và phong phú hơn cho tâm hồn con người.
-  Nở hoa nơi từ ngữ bởi lẽ: vẻ đẹp của tình cảm, cảm xúc trong thơ phải được kết tinh ở hình thức nghệ thuật, được biểu hiện bằng những biện pháp nghệ thuật độc đáo mà trước hết là nghệ thuật sử dụng ngôn từ.
b. Bàn luận, mở rộng vấn đề
- Nếu thơ chỉ bắt rễ từ lòng người, chỉ có tình cảm cảm xúc mãnh liệt mà không nở hoa nơi từ ngữ thì tình cảm cảm xúc trong thơ sẽ không tìm được hình thức biểu hiện độc đáo, hấp dẫn; do đó khó tạo nên vẻ đẹp, sức lôi cuốn của tác phẩm.
- Ngược lại, nếu chỉ trau chuốt, đẽo gọt ngôn từ mà xem nhẹ tình cảm, cảm xúc thì tác phẩm sẽ trở nên khô khan, nghệ thuật không sao cất cánh lên được.
3. Chứng minh (6,0 điểm)
Thí sinh chọn và phân tích một bài ca dao và một bài thơ trung đại (đã được học hoặc đọc thêm trong chương trình Ngữ văn 10 Nâng cao) để làm sáng tỏ vấn đề.


No comments:

Post a Comment