Tuesday, January 30, 2018

Đề thi thử THPT quốc gia 2018

Câu 1 (8 điểm): Suy nghĩ về câu nói sau:
Đường đời không chỉ có một lối đi
Câu 2 (12 điểm):
Mỗi nghệ sĩ có thể đến với văn chương và cuộc đời bằng con đường riêng của mình. Nhưng… tư duy nghệ thuật dù có đổi mới đến đâu đi nữa thì cũng không thể vượt ra ngoài các quy luật của chân thiện mĩ, quy luật nhân bản. Nhà văn chân chính có sứ mệnh khơi nguồn cho dòng sông văn học đổ ra đại dương nhân bản mênh mông.
(Lã Nguyên, Nguyễn Minh Châu và những trăn trở trong đổi mới tư duy nghệ thuật/ Nguyễn Minh Châu – về tác gia và tác phẩm; NXB GD; Hà Nội; 2007; trang 395)
Anh (chị) hiểu nhận định trên như thế nào? Làm sáng tỏ qua truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam và “Chí Phèo” của Nam Cao.
   …………………………………Hết…………………………………



Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Giám thị không giải thích gì thêm.





Câu 1 (8 điểm): Đường đời không chỉ có một lối đi
1. Giải thích (2.0 điểm)
- Lời khẳng định ở chỗ: không chỉ có một lối đi; đã nhấn mạnh: có nhiều lối đi trên đường đời – con đường cuộc đời mỗi người. Cuộc đời nhiều ngã rẽ, nhiều nẻo đường; mỗi con đường dẫn đến  những mục tiêu khác nhau. Có con đường thẳng, phẳng phiu, có con đường chông gai, gồ ghề, trắc trở, gập ghềnh; có nhiều ngả đường dẫn đến đích; vấn đề lối đi nào ngắn nhất, thông minh nhất, đạt mục tiêu sớm nhất thì còn tùy thuộc vào sự lựa chọn của mỗi người.
- Câu nói đặt ra vấn đề lựa chọn đường đi trên đường đời của con người.
2. Bình luận (5.0 điểm)
- Đây là vấn đề rất quan trọng đặt ra với mỗi người, nhất là những người sắp bước vào đời, đang lựa chọn đường đi cho cuộc đời mình. Tại sao trên đường đời lại có nhiều lối đi? Bởi con đường là do con người tạo ra, người ta đi mãi thành đường. Con đường kết nối những điểm trong không gian, cũng là cái đích cần tới của con người. Tạo ra nhiều con đường cũng tức là tạo ra nhiều cách đi đến đích, tạo ra nhiều sự lựa chọn cho con người.
Ví dụ để lập nghiệp lập thân với thanh niên có nhiều con đường: Ngày xưa để lập nghiệp người con trai có thể trên con đường lập đức hành đạo, lập công, hay con đường lập ngôn. Có người lựa chọn con đường công danh, người chọn con đường văn chương nghệ thuật, con đường võ nghệ...  Thời đại cách mạng cũng mở ra nhiều con đường với người thanh niên Việt Nam thế kỉ 20. Có người lựa chọn đúng đắn con đường của mình; nhưng không ít người lầm đường lạc lối. Lựa chọn con đường sáng – tối, đen – trắng, phải – trái là cả vấn đề nhân cách và ý chí của con người. Ngày nay cũng vậy, có nhiều con đường: học tập thành danh, lao động sản xuất, kinh doanh công nghệ, văn nghệ thể thao… và trên con đường nào cũng có người thành danh nổi tiếng.
- Nhưng lưạ chọn con đường đi nào tùy thuộc vào mỗi người: mục tiêu, ước mơ, khát vọng, ham muốn, hay bản lĩnh, ý chí của con người. Có người chọn đường đi trên đường đời đúng đắn, đi đến đích nhanh chóng dễ dàng? Có người lựa chọn sai con đường của mình dẫn đến những sai lầm đổ vỡ?
- Vấn đề đặt ra: có nhiều con đường đi trên đường đời đến đích, vậy nên con người không nên bi quan chán nản mỗi khi vấp ngã trên đường đời. Có những lúc băn khoăn, chao đảo, đứng ở ngã ba cuộc đời nhiều lối rẽ, không biết đi con đường nào. Lúc ấy hãy tỉnh táo nhận ra con đường đi của riêng mình và quyết tâm dấn bước, đó là điều tiên quyết để lập thân lập nghiệp với mỗi người, nhất là người thanh niên. Và phải chọn được con đường của riêng mình, không nên dẫm lên vết chân người đi trước.
- Phê phán những người hèn yếu, không biết chọn đường đi trên đường đời, hoặc chọn con đường sai lầm hại dân hại nước, hại nhà hại mình; hoặc bỏ cuộc, đầu hàng số phận.
3. Bài học và liên hệ (1.0 điểm)
- Nhận thức được những ngã rẽ cuộc đời, con đường đúng đắn để đi.
- Quyết tâm thực hiện con đường mình đã lựa chọn, không bỏ dở con đường; có nghị lực bản lĩnh vượt qua mọi trở ngại trên đường đời nhiều chông gai trắc trở; biết chống lại những cám dỗ trên đường đời, biết tránh những xấu xa trên con đường để đi đến đích.
Câu 2 (12 điểm):
1. Giải thích: (4.5 điểm)
a. Mỗi nghệ sĩ riêng mình  (1.5 điểm)
Câu nói đề cập đến cách tiếp cận, cắt nghĩa, lí giải đời sống bằng văn chương của mỗi người nghệ sĩ: mỗi người có con đường của riêng mình. Vì sao?
+ Vì đời sống là đối tượng khám phá của NT, của văn chương. Cuộc đời là nơi xuất phát của văn học.
+ Đứng trước HT cuộc sống phong phú, mỗi nhà nghệ sĩ có những cảm xúc, suy ngẫm, lí giải khác nhau, lựa chọn những mảng đề tài khác nhau, cách xử lí đề tài khác nhau để đặt ra những vấn đề khác nhau. Và đó là con đường riêng họ tạo ra cho mình. Đó cũng là yêu cầu xuất phát từ đặc trưng của VHNT: lĩnh vực của sự sáng tạo. Đó cũng là lương tâm, là trách nhiệm của mỗi người nghệ sĩ. Nam Cao tâm niệm: “Văn chương không cần những người thợ khéo tay…”.
Nếu không tạo ra con đường riêng của mình thì sao? Tác phẩm của họ sẽ trở thành sự sao chép, sẽ chết, sẽ dẫm lên vết chân của người đi trước. Nghĩa là nó sẽ chẳng mang đến chút gì mới lạ cho văn chương.
Tác dụng: Tạo ra con đường riêng của mình người nghệ sĩ sẽ tạo ra sự đa dạng trong sáng tạo nghệ thuật, khẳng định sức sống của mỗi tác phẩm, vị trí, phong cách của nhà văn, cái lí để nhà văn đứng được với cuộc đời.
Có thể lấy ví dụ: Cùng một đề tài, cách xử lí khác nhau ở các nhà văn.
b. Tư duy NT…. quy luật chân thiện mĩ, quy luật nhân bản (1.5 điểm)
  Đây là vấn đề đổi mới tư duy nghệ thuật – một vấn đề đặt ra như một nhu cầu bức thiết, sống còn của nghệ thuật. Nhà văn luôn phải tự làm mới mình góp phần đổi mới nghệ thuật. Đổi mới cái gì? Đổi mới đề tài, chủ đề, cảm hứng, văn phong… Quan trọng là đổi mới tư duy, cách nhìn nhận của nhà văn trước cuộc đời.
 Nhưng mọi sự đổi mới đều không vượt ra ngoài quy luật chân, thiện, mĩ. Cái chân, cái thiện, cái mĩ, cái nhân bản vẫn là cái đích hướng đến của mọi khám phá, sáng tạo nghệ thuật. Quy luật chân thiện mĩ, nhân bản giống như sợi dây neo giữ, là giới hạn mà bán kính sáng tạo  nhà văn quay chiều nào cũng không thể vượt qua. Nói cách khác, nó cũng là một tâm điểm của mọi khám phá sáng tạo nghệ thuật.
Văn học sở dĩ là nhu cầu, là món ăn tinh thần không thể thiếu của con người, vì nó là lĩnh vực đáp ứng nhu cầu sống của con người. Văn học có nhiều chức năng (nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ, dự báo, giải trí…); có nhiều quan niệm cổ kim đông tây, nhưng điểm giao thoa gặp gỡ vẫn cứ là cái chân - thiện - mĩ, những vấn đề mang tính nhân bản nhân văn của đời sống con người. Cái chân, là muốn nói đến chức năng nhận thức của văn học; văn học phải chân thực. Cái thiện là nói đến chức năng giáo dục, cảm hóa của văn học. Cái mĩ, là nói đến chức năng thẩm mĩ, chức năng cơ bản nhất, chất keo kết dính các chức năng khác. Khi đạt tới chân thiện mĩ là văn học đạt tới chiều sâu nhân bản, hướng về con người, vì con người.
c. Sứ  mệnh nhà văn chân chính… đại dương nhân bản mênh mông (1.5 điểm)
Đây là vấn đề trăn trở của nhiều cây viết. Chữ dùng có thể khác nhau, nhưng thực chất vẫn là một. Thạch Lam, Nam Cao, Nguyễn Tuân và nhiều nhà văn khác có những phát biểu về vấn đề này. Đó là vấn đề cái tâm của người cầm bút. Ở đây người nói đặt vấn đề: “khơi nguồn dòng sông văn học đổ ra đại dương nhân bản mênh mông” – ý tưởng độc đáo.  Mọi dòng sông đều đổ về biển rộng, cũng như mọi khám phá sáng tạo đều có đích hướng về, những vấn đề thuộc về con người, nhân sinh, nhân bản. Bởi lẽ, con người là một trung tâm khám phá của văn học nghệ thuật. Văn học có thể viết về mọi vấn đề của đời sống, mọi hình thức sáng tạo, nhưng đều hướng tới là để đặt ra và cắt nghĩa những vấn đề của nhân sinh. Văn học chân chính phải là thứ văn chương vị đời, nhà văn chân chính phải là nhà văn vì con người, tác phẩm mới đạt tới tầm nhân bản.
2. Chứng minh qua một vài tác phẩm (6.0 điểm)
- Cách đến với cuộc sống của Thạch Lam qua truyện “Hai đứa trẻ”: Chuyện một phố huyện buồn, những đứa trẻ nghèo với tâm hồn nhân ái, giàu mơ ước. Qua đó nhà văn đặt ra nhiều vấn đề sâu sắc mang tính nhân văn, nhân bản: vấn đề khát vọng sống của con người; vấn đề quyền được sống của trẻ em; vấn đề số phận con người và khát vọng đổi thay cuộc sống… Tác phẩm lấp lánh tư tưởng nhân văn theo cách viết của Thạch Lam (3.0 điểm).
- Cách đến với cuộc sống của Nam Cao qua truyện “Chí Phèo”: Chuyện về số phận bi thảm của người nông dân, về khát vọng lương thiện của con người – quỷ dữ. Dù đến muộn trên văn đàn, nhưng Nam Cao vẫn tạo được dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc chính nhờ hướng khám phá và phát hiện đời sống của riêng mình. Chí Phèo sở dĩ trở nên bất hủ chính nhờ tài năng và tâm huyết cũng như phong cách của Nam Cao.
- Cả hai tác phẩm đều chạm tới vấn đề mang tính nhân văn, nhân bản: khám phá vẻ đẹp con người, chất người, tức là đạt tới chân thiện mĩ… Tuy nhiên mỗi tác giả trong mỗi tác phẩm lại có những khám phá nghệ thuật riêng, hướng đi riêng; làm nên giá trị riêng cho mỗi tác phẩm và khẳng định vị trí của mỗi nhà văn trong nền văn học (3.0 điểm).
3. Kết luận (1.5 điểm):  khẳng định vai trò của hướng đi riêng trong khám phá sáng tạo; đặc biệt là cái đích muôn đời của văn chương.
Trên đây chỉ là những gợi ý có tính chất định hướng. GV cần căn cứ trên bài viết cụ thể để chấm điểm cho sát hơn. Khuyến khích những bài viết sáng tạo. 

Hướng dẫn:

Câu 1 (8,0 điểm) 

I. Yêu cầu về kĩ năng         

Biết cách làm bài nghị luận xã hội, bố cục mạch lạc, rõ ràng, lập luận chặt chẽ. Dẫn chứng cụ thể, sinh động, văn giàu cảm xúc, không mắc lỗi về chính tả, dùng từ, diễn đạt.

      II. Yêu cầu về kiến thức
      - Hiểu và đánh giá, bàn luận  thuyết phục vấn đề mà đề bài nêu ra
      - Học sinh có thể có những kiến giải, đánh giá theo quan điểm riêng của mình song cần lôgic, hợp lí và đảm bảo những ý sau:
1. Giải thích (2,0 điểm)
          - Tự thỏa hiệp: Thái độ và hành động chấp nhận hoàn cảnh, thực tế trước mắt; bỏ qua mục đích, dự định mình đã vạch ra trước đó.
          - Cách nói hình ảnh loài vi trùng tự thỏa hiệp có thể ăn sâu vào cốt tủy, khiến cả đời con không đứng thẳng lên được gợi tả sự nguy hại của việc con người tự thỏa hiệp với mình trong cuộc sống. Giống như loài vi trùng gây bệnh, tâm lí tự thỏa hiệp có thể ăn sâu và hủy hoại cuộc đời của mỗi con người, khiến người ta không thể sống một cuộc đời như mong đợi.
-> Lời căn dặn của người cha với con cũng là một bài học đạo đức sâu sắc, có tác dụng cảnh tỉnh con người trước nguy cơ tự thỏa hiệp để biện hộ cho sự hèn nhát, thiếu bản lĩnh, ý chí mình khi không thực hiện được một việc nào đó.
2. Bình luận (5,0 điểm)
          a. Tự thỏa hiệp là loài vi trùng nguy hiểm có thể ăn sâu vào cốt tủy và khiến con
người ta không đứng thẳng lên được là vì:
- Trong mỗi con người đều có hai phần Con và Người, bản năng và lí trí…Không ít trường hợp tiếng nói của bản năng với nhu cầu hưởng thụ, tâm lí ngại khó ngại khổ, tự thoả mãn đã lấn át lí trí, khiến con người gục ngã trên hành trình thực hiện lí tưởng. Tâm lí tự thỏa hiệp xuất hiện có thể vỗ về người ta quên đi thực tại, biện hộ cho thất bại của bản thân mình.
+ Tự thỏa hiệpvi trùng nguy hiểm vì những biểu hiện của nó hầu như không gây nguy hại gì ngay tức khắc nhưng lại dần ăn sâu, hủy hoại con người, dần tạo thành những thói quen khó bỏ, những tính xấu khó chữa, biến con người thành nhu nhược, lười biếng, sống không lí tưởng.
b. Mở rộng, nâng cao vấn đề
- Cần phân biệt tự thỏa hiệp với sự tỉnh táo chấp nhận thực tế để sửa đổi, tránh bảo thủ máy móc.
- Cần phê phán những người, những biểu hiện hèn nhát, tự ru mình, thỏa hiệp với hoàn cảnh trước mắt.
3. Bài học và liên hệ bản thân (1,0 điểm)
 Mỗi người cần nâng cao ý thức, đề cao tính kỉ luật tự giác, không cho phép mình thối chí, tự thoả hiệp bằng lòng với bản thân.
Câu 2 (12,0 điểm)
I. Yêu cầu về kỹ năng
Biết cách làm bài nghị luận văn học: kết cấu sáng rõ, lập luận chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, văn viết giàu cảm xúc.
II. Yêu cầu về kiến thức
Thí sinh có thể làm bài theo nhiều cách khác nhau, song về cơ bản cần đảm bảo những nội dung cơ bản sau:

1. Giải thích (2,0 điểm)
- Thơ ca: trước hết là một loại hình văn học, sau nữa có thể hiểu là chỉ văn học nghệ thuật nói chung.
- Thơ ca bắt rễ từ lòng người: Thơ ca là tiếng nói chân thực của tình cảm. Nó được khơi nguồn, bắt rễ từ tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Vế thứ nhất của nhận định đề cập đến khởi nguồn của thơ, vai trò của yếu tố tình cảm, xúc cảm trong sáng tác thơ, đến nội dung của tác phẩm văn học.
- Nở hoa nơi từ ngữ: Từ ngữ hiểu rộng là ngôn từ nghệ thuật, là giá trị nghệ thuật, là vẻ đẹp ngôn ngữ của tác phẩm văn học.
Như vậy, nhận định của đề bài bàn về mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của tac phẩm nghệ thuật; về đặc trưng của văn học, đặc trưng của thơ; đề cao vai trò của yếu tố tình cảm, cảm xúc trong thơ, đồng thời yêu cầu tình cảm ấy phải được diễn tả bằng ngôn từ đẹp đẽ, giàu tính thẩm mĩ. Đây là một qui luật, cũng là một yêu cầu trong sáng tạo nghệ thuật.
2. Bình luận (4,0 điểm)
a. Vì sao lại nói: Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ?
- Thơ ca bắt rễ từ lòng người bởi lẽ:
+ Xuất phát từ đặc trưng của văn học: Nghệ thuật là lĩnh vực sáng tạo để phản ánh hiện thực, trong đó phản ánh tâm tư, tình cảm của chủ thể sáng tạo. Xuất phát từ đặc trưng về đối tượng, nội dung của văn học, có thể thấy: văn học không phản ánh hiện thực một cách bàng quan, lạnh lung mà bao giờ cũng gắn chặt với tình cảm, ước mơ, khát vọng…của nhà văn. Điều đó tạo nên qui luật tình cảm trong phản ánh nghệ thuật.
+ Xuất phát từ đặc trưng của thơ, đặc biệt là thơ trữ tình: tiếng nói trữ tình bao giờ cũng được bộc lộ trực tiếp, trở thành bình diện thứ nhất của sáng tác.
- Tiếng nói của tình cảm, tâm tư con người được gửi gắm trong tác phẩm nghệ thuật như thế nào?
+ Nhu cầu được giãi bày những gì chất chứa trong lòng (niềm vui, nỗi buồn…)
+ Là lời nhắn gửi, sự cảm thông; là tiếng lòng đến với tiếng lòng (tiếng nói tri âm)
+ Nghệ thuật chân chính còn chứa đựng trong nó chiều sâu của tư tưởng tiến bộ, các giá trị đối với cuộc sống, làm đẹp và phong phú hơn cho tâm hồn con người.
-  Nở hoa nơi từ ngữ bởi lẽ: vẻ đẹp của tình cảm, cảm xúc trong thơ phải được kết tinh ở hình thức nghệ thuật, được biểu hiện bằng những biện pháp nghệ thuật độc đáo mà trước hết là nghệ thuật sử dụng ngôn từ.
b. Bàn luận, mở rộng vấn đề
- Nếu thơ chỉ bắt rễ từ lòng người, chỉ có tình cảm cảm xúc mãnh liệt mà không nở hoa nơi từ ngữ thì tình cảm cảm xúc trong thơ sẽ không tìm được hình thức biểu hiện độc đáo, hấp dẫn; do đó khó tạo nên vẻ đẹp, sức lôi cuốn của tác phẩm.
- Ngược lại, nếu chỉ trau chuốt, đẽo gọt ngôn từ mà xem nhẹ tình cảm, cảm xúc thì tác phẩm sẽ trở nên khô khan, nghệ thuật không sao cất cánh lên được.
3. Chứng minh (6,0 điểm)
Thí sinh chọn và phân tích một bài ca dao và một bài thơ trung đại (đã được học hoặc đọc thêm trong chương trình Ngữ văn 10 Nâng cao) để làm sáng tỏ vấn đề.


No comments:

Post a Comment